Sự ảnh hưởng qua lại giữa các hệ tư tưởng triết học nếu chúng có cơ hội giao lưu là một vấn đề mang tính tất yếu, tức là nếu có giao lưu ắt có sự tiếp thu, tiếp biến. Mối tương quan giữa Phật giáo (khởi nguyên từ Ấn Độ) và Nho giáo (xuất phát từ Trung Quốc), vốn được xem là những cái nôi của nền văn minh nhân loại, cũng không đi ngoài quy luật này. Hơn thế nữa, cả hai đều nằm trong cái triền của hệ tư tưởng phương Đông, ít nhiều có những nét chung của kiểu tư duy Đông phương cho dù Nho giáo chú trọng tổ chức, cải tạo xã hội bằng việc thực hành điều Nhân, Lễ, Nhạc…, trong khi tôn chỉ của Phật giáo là Minh Tâm, Kiến Tánh, tập trung vào giải quyết những vấn đề thuộc bản thể luận và giải thoát luận.
Ở Trung Quốc, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Ba giáo Phật – Đạo – Nho có cùng nguồn gốc) xuất hiện từ thời Ngụy – Tấn – Nam Bắc triều do Cát Hồng đề xướng. Cát Hồng là một Đạo sĩ sinh năm 284, mất năm 364. Ông là người thiên tư thông tuệ, tinh thông Tam giáo, đạo hạnh cao siêu, là người đặt nền móng cho sự ra đời của “Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên”, rồi được Đào Hoằng Cảnh (456 – 536) đời Tề kế thừa và phát triển. Sau đó, tư tưởng này ngày càng được tiếp thu và phổ biến không chỉ ở Trung Quốc mà còn truyền sang các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam…
Có lẽ do ảnh hưởng của quan niệm Tam giáo đồng nguyên, dẫn đến sự ra đời một xu hướng mới: xu hướng “Khu Thích dĩ nhập Nho” (Đưa Phật giáo vào Nho giáo). Xu hướng này, có lẽ đã manh nha từ lâu. Khi đạo Phật từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, các nhà truyền đạo phải mượn chữ Hán (những thuật ngữ của Nho gia và Đạo gia) để truyền đạo. Trong số các nhà truyền đạo đó, có không ít các nhà Nho mộ Phật, nên không khỏi ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo. Đến đời Tống, Nho giáo truyền thống dần dần suy yếu, các đại biểu xuất sắc của Nho gia như Trình Di, Trình Hiệu (Hạo) ở thế kỷ XI, Chu Hy (1137 – 1200), Lục Tượng Sơn (?), Vương Dương Minh (1472 – 1529) đã thấy Nho giáo đang đứng trước nguy cơ, thách thức tồn vong vì sự nghèo nàn và đơn điệu của học thuyết Nho gia truyền thống, không thể “cạnh tranh” với tư tưởng học thuyết uyên thâm của Phật giáo, Đạo giáo với những cống hiến lớn cho nền triết học đương thời và ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp của xã hội, nhất là giai cấp thống trị và tầng lớp thức giả. Hơn nữa, đây còn là một yêu cầu cấp bách vì các đại biểu xuất sắc của Nho gia cho rằng đường lối, tư tưởng của hai đối thủ là những mối nguy hại không nhỏ cho nền đạo đức, chính trị. Bởi vì, trước hết cả hai nhà đều xem nhẹ Tam cương, ngũ thường, việc thực hành nhân, lễ… và nghĩa vụ của con người trong xã hội, bao gồm cả chủ trương vô chính phủ, lãng mạn, phóng nhiệm của Đạo giáo và ý thức xem cuộc đời là biển khổ, là vô thường, cố gắng tu hành để đạt đến cảnh giới vô ngã của Phật giáo. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự ra đời của cuộc cải cách Nho giáo. Nhưng có một điều không thể không nói đến là, tuy các nhà Nho một mặt, gióng trống phất cờ đả kích các quan điểm mà họ cho là phi đạo đức của Đạo giáo và Phật giáo, mặt khác họ kế thừa các tư tưởng triết học uyên thâm của hai đối thủ, khéo léo tiếp thu, tinh tuyển và dung hợp các yếu tố này vào trong hệ thống tư tưởng của họ để tạo thành học thuyết Tân Khổng giáo với chủ trương “tìm hiểu sự vật” của dòng chính thống mà đại biểu là Trình Di, Trình Hiệu, Chu Hy và dòng không chính thống chủ trương “tìm hiểu tâm” mà đại biểu là Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh.
Sự manh nha của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên xuất hiện ở Giao Châu (Việt Nam) vào khoảng thế kỷ thứ II, mà nhà Phật học lừng danh Mâu Bác (Mâu Tử) với tác phẩm kinh điển Lý hoặc luận là đại biểu. Quan điểm của ông là, mặc dù Tam giáo có một một số chủ trương mới nhìn thì thấy rất khác biệt, vì lý do xuất xứ, không gian và thời gian. Nhưng sự khác nhau đó chỉ thuộc về phương tiện, chứ cứu cánh vẫn đồng nhất: “Châu dư dị lộ, câu tứ hành dã” (Thuyền – xe không đi chung đường, nhưng đều đưa người đến chốn) [Nguyễn Đăng Thục (1974) Phật giáo Việt Nam, tr.287]. Tư tưỏng Tam giáo đồng nguyên được kế thừa và liên tục phát triển qua nhiều thời đại bởi nhiều giới thức giả từ Thiền sư, Đạo sĩ, Nho sĩ cho đến vua, quan như: Thiền sư Viên Chiếu, vua Lý Nhân Tông, vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung thượng sĩ, Thiền sư Hương Hải, nhà Nho bác học Lê Quí Đôn, hai cha con nhà Nho sùng Phật và Đạo Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, tể tướng Trịnh Tuệ, Thiền sư Toàn Nhật, sĩ phu Nguyễn Đình Chiểu, sư Giác Lâm… Trần Thái Tông lý giải sự tương đồng của Phật – Đạo – Nho về mặt tích đức, hành thiện như sau: “Nho điển thi ân báo đức, Đạo kính ái vật hiếu sinh, Phật duy giới sát thị trì (Sách Nho dạy thi ân bố đức, kinh Đạo giáo dạy yêu mọi vật, quý sự sống, đạo Phật dạy giữ giới không sát sinh) [Khoá hư lục ‘giới sát sinh văn’, tr.49, Nguyễn Đăng Thục dịch]. Thiền sư Hương Hải luận chỗ giống nhau của Phật, Nho ở sự thâm sâu, uyên áo bằng hai câu thơ đầy hình tượng:
Nho nguyên đãng đãng đăng nhi khoát,
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.
( Rừng Nho bát ngát vào thêm rộng/Biển Phật mênh mông tới càng sâu) [Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2, Kiến văn tiểu lục (1977), tr.409 – 410, Nxb KH-XH, HN].
Thiền sư Toàn Nhật bày tỏ tư tưởng Tam giáo nhất gia, chúng hỗ tương lẫn nhau làm lợi ích cho cuộc đời trong Hứa Sử truyện vãn như sau:
“…Nho ra sửa trị đời nên thanh bình,
Thích ra độ tử cứu sinh,
Đạo ra tẩn diệt mị tinh yêu tà.
Thánh hiền phân chế làm ba,
Tam giáo so lại nhất gia khác gì…” [Lê Mạnh Thát (1979) ,Toàn Nhật thiền sư toàn tập, tập 1, tr 189-190, Viện Phật học Vạn Hạnh]
Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một tác phẩm luận thuyết triết học mang đậm nét áo bí của tư tưởng phương Đông, mặc dù, nêu lên tông chỉ kế thừa, xiển dương tinh thần vô ngã, nhập thế cứu đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, thể hiện rõ trên tiêu đề, nhưng cảm hứng chủ đạo vẫn là xu hướng dung hợp ba nguồn tư tưởng Phật – Đạo – Nho. Tác phẩm này ra đời năm 1796 do Hải Lượng đại thiền sư Ngô Thì Nhậm và một số pháp hữu, đệ tử sáng tác tại thiền viện Trúc Lâm, phường Bích Câu, Hà Nội. Trong đó, Hải Lượng đại thiền sư Ngô Thì Nhậm viết phần chính văn; Bảo Chân đạo nhân Phan Huy Ích viết lời tựa; Hải Huyền Ngô Thì Hoành – em ruột Ngô Thì Nhậm, viết thanh dẫn; Hải Âu hòa thượng Vũ Trinh và Hải Hòa tăng Nguyễn Đăng Sở – hai người bạn của Ngô Thì Nhậm, viết thanh chú; Hải Điền Nguyễn Đàm- cháu ruột Nguyễn Du, viết thanh tiểu khấu. Tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh còn có tên Đại chân viên giác thanh và cũng được gọi là Nhị thập tứ thanh.
Có thể nói rằng dòng máu chảy trong người Ngô Thì Nhậm là dòng máu Nho gia, do kế thừa huyết thống của dòng họ “danh gia vọng tộc” Ngô Thì, mà trực tiếp là ông nội Ngô Thì Ức và thân phụ tài năng Ngô Thì Sĩ. Từ nhỏ Ngô Thì Nhậm đã được cha dạy dỗ vô cùng nghiêm khắc, theo hướng “giữ nghiệp Nho”, nên dòng nhiệt huyết kinh bang tế thế theo kiểu nhà Nho sớm hình thành trong ông. Và ông đã không những không làm cho cha ông thất vọng, mà còn rất tự hào về ông. Ông đỗ đạt và nỗi danh rất sớm, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình, hơn nữa ông đã đạt được những thành tựu lớn trong việc cống hiến hết tài năng và sức lực của mình phục vụ cho nước, cho dân.
Có một điều ai cũng lấy làm lạ là, trong cuộc đời của một nhà Nho từ trong máu huyết như Ngô Thì Nhậm, lại đã từng làm quan lớn cho cả triều Lê trung hưng và Tây Sơn. Vì như vậy, phải chăng đã đi ngược với tôn chỉ “Trung thần bất sự nhị quân” ( bề tôi trung thành không thờ hai vua ) của Nho gia? Câu trả lời, có thể là do ông chịu ảnh hưởng tư tưởng phóng khoáng và tuỳ duyên của Phật giáo và tư tưởng hòa quang đồng trần của Lão Trang trong xu hướng Tam giáo đồng nguyên mà thân sinh của ông cũng là một trong số những người có quan niệm đó.
Nhưng có một sự thật không thể không quan tâm là giai đoạn vàng son nhất của thời kỳ phong kiến Việt Nam với những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực như văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, thương mại… nhất là, tinh thần hào hùng của thời đại và nhân cách siêu việt của những đứa con tinh thần của thời đại đó, được hầu hết các sử gia công nhận đó là thời Lý – Trần. Thời này, tư tưởng Tam giáo (Phật – Đạo – Nho) ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp xã hội, trên từ vua, quan và các tầng lớp thức giả, dưới cho đến thứ dân. Vấn đề ở chỗ, mặc dù cũng lúc này tư tưởng chính thống của xã hội là tư tưởng Tam giáo nhưng trung tâm điểm vẫn là tư tưởng Phật giáo Thiền tông. Lời của thiền sư Trí Thiền thể hiện rõ điều đó: “Như Lai lục ngữ cái bất hư thuyết. Thế gian chư pháp hư huyễn bất thực, duy đạo vi thực, ngã phục hà cầu. Thả Nho gia khả thuyết quân thân phụ tử chi đạo, Phật pháp khả ngôn Bồ tát, Thanh văn chi công. Nhị giáo tuy thù, kỳ quy tắc nhất. Nhiên, xuất sinh tử, nhược đoạn hữu vô kế phi Thích tắc bất năng dã” (Lời nói của Như Lai chẳng phải là lời nói suông. Các pháp ở trên thế gian này đều là hư ảo, không thực, chỉ có đạo mới là thực, ta còn cần gì nữa; vả lại, Nho gia nói đạo vua tôi, cha con; Phật pháp nói về công đức của các vị Bồ tát, Thanh văn. Hai giáo tuy có chỗ khác nhau nhưng quy về một mối mà thôi. Chỉ là, muốn vượt qua nỗi khổ sinh tử, dứt khỏi sự cố chấp hữu vô, ngoài Phật giáo ra thì không thể nào đạt được) [Thiền uyển tập anh, bản Vĩnh Thịnh, ký hiệu A.3144, tờ ?]. Trong khi, từ khoảng nửa cuối thế kỷ XIV về sau, những nhân sĩ của Nho gia dần dần chiếm vị trí quan trọng trên chính trường, Nho giáo ngày càng có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Đến nửa cuối thế kỷ XVIII, tình cảnh nước ta vô cùng đen tối, các thế lực phong kiến xâu xé lẫn nhau, nội chiến liên miên giữa các thế lực của nhà Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, rồi phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại các thế lực phong kiến, đã làm cho nhân dân khốn khổ, cơ cực không bút mực nào tả xiết. Lúc này tư tưởng Tam giáo vẫn ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. Nếu ở đời Trần, tư tưởng Tam giáo lấy Phật giáo thiền tông Trúc Lâm làm chủ đạo, thì thời kỳ này Nho giáo lại là hạt nhân của tư tưởng Tam giáo, điển hình là tác phẩm luận thuyết triết học Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh với xu hướng Tam giáo đồng nguyên của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Phải chăng, chính sự khinh hay trọng tư tưởng Phật hoặc Nho là một trong những nguyên nhân dẫn đến hệ quả là sự hưng hay suy của dân tộc.
Hoà trong quan niệm Tam giáo đồng nguyên là xu hướng “Khu Thích dĩ nhập Nho” trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được Bảo Chân đạo nhân Phan Huy Ích khẳng định trong Đại chân viên giác thanh tự như sau: “Thuyết tân thanh của ông, bọn tục Nho nghe thấy chắc sẽ đâm ra nghị luận, mà ví ông như Xương Lê (Hàn Dũ) trước thì bài Phật, sau lại nghiêng theo. Tượng Sơn (Lục Cửu Uyên) chủ trương tịnh chính là bắt gốc ở đạo Thiền. Đem những lời ức đoán tầm thường như thế để phẩm bình ông thì làm sao mà đánh giá được sở học của ông! tận tính nhi cùng lý, khu Thích dĩ nhập Nho, ông đã khiến cho tám bộ Phạn vương (Phật) không ra ngoài cung của Tố vương (Khổng Tử). Phan Huy Ích còn luận giải rõ: “Đạo lớn phát ra tự trời, lưu hành khắp vũ trụ, phân tán thành vạn vật. Cái thể thì đồng, nhưng cái dụng thì dị. Đồng là gốc, còn dị là ngọn, xem bề ngoài thì tưởng như khác đường khác nẻo, nhưng thống hội lại cho đến chổ cực kỳ tinh vi thiết yếu thì chẳng có gì là vượt ra ngoài đạo lớn kia được. Giáo lý của Thích Ca tuy nói là không tịch hư vô, nhưng đại yếu vẫn là trừ bỏ hết mọi chướng luỹ, thấy rõ Chân như. Cho rằng minh tâm kiến tính là việc cần kíp nhất, nếu đem so sánh với học thuyết thành ý trí tri của nhà Nho ta thật chẳng có gì trái ngược” [NTN-TP, t3 tr 141].
Tăng Hải Hòa Nguyễn Đăng Sở phân tích chỗ tương đồng của Nho và Phật từ góc độ dùng lý thuyết của Nho gia để lý giải Phật giáo như sau: “Vạch cái lý huyền diệu, mở cái tâm sâu kín để trỏ cho người ta, ấy là công việc thứ nhất của Thiền gia. [thế mà] Phải dùng luận thuyết của nhà Nho để luận thuyết điều đó, là vì đạo chỉ có một mà thôi. Chỗ huyền diệu của Nho tức Thiền, chỗ tác dụng của Thiền tức là Nho. Gạt bỏ văn từ kỹ xảo [Nho] và giới hạnh tầm thường [Phật] mà tìm cái gọi là đạo, thì [Nho và Phật] có thể nhất quán được” [NTN-TP,T3,tr.149] Cái Lý có thuận, có nghịch không thể noi theo hết thảy được không khác gì cây Ưu đàm tương truyền không có hoa mà:
“Ưu đàm ra hoa,
Giáng sinh Di Đà,
Xuất thế Thích Ca.” [NTN-TP,T3,tr 150]
Hải Lượng đại thiền sư Ngô Thì Nhậm dung hòa cái nghĩa bình đẳng của Phật gia vào cái nghĩa đại đồng của Nho gia: “Khổng Tử tịch tĩnh bất động, nhưng có tác dụng với sự cố trong thiên hạ. Đại Thế Chí Bồ tát vào trong vô lượng nghĩa, ở trong tam muội, thân tâm bất động , phóng ánh sáng bạch hào nơi lông mày chiếu rọi một vạn tám nghìn thế giới ở Đông phưong khắp hết mọi chỗ, như thế gọi là Pháp gia…ta nghe Khổng Tử nói ‘chim muông ta không thể cùng bầy được, nếu không bạn bè với người thì ta còn bạn bè với ai?’. Kinh Liên Hoa nói rằng ‘Ta xem hết thảy bình đẳng, không có lòng yêu này ghét nọ. Ta không tham cái gì cũng không có cái gì hạn định và trở ngại ta cả’. Đó là cái nghĩa đại đồng của Nho gia” [NTN-TP,T3,tr174\
Nhà Phật nói chúng sinh bình đẳng trong tính bản thể với ý nghĩa tuyệt đối bao gồm Phật, Trời, Thần, Thánh, người, và muông thú. Phàm các loài hữu tình có mạng sống, biết khổ đau đều là chúng sinh theo lý nhà Phật. Lý bình đẳng dựa trên cơ sở “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật” [Kinh Phạm Võng, Thích Trí Tịnh dịch, NXB TP.HCM, tr.13]. Khả năng tính thành Phật chính là nền tảng vững chắc nhất, mang giá trị nhân văn cao nhất với ý nghĩa tuyệt đối nhất về sự bình đẳng vô giới hạn giữa mọi chúng sinh. Trong khi, Khổng Tử chỉ nêu lên tính đại đồng giữa người và người, loại biệt chim muông ra khỏi tính này. Bình đẳng không phải là không phân biệt Có, Không, Thiện, Ác, Đúng, Sai… ( NTN-TP,T3,tr 170, phần chú thích)
Trong chương Nhất thanh, phần thanh dẫn, Hải Huyền Ngô Thì Hoành dung hợp Nho và Phật trong nghĩa chữ Nhất: “Nhất là tinh chất, không tạp, hợp tất cả muôn việc trong thiên hạ lại làm một. Ý nghĩa ấy bao gồm rất rộng. Thái Cực tóm âm dương lại làm một, Âm Dương tóm ngũ hành lại làm một. Đạo lý vần xoay, đi đâu chẳng phải là một (Nhất). Nhà Nho nói: ‘lý không có hai bên cùng phải’ không có hai phải tức là Nhất (một). Thích có bất nhị pháp môn, bất nhị cũng là Nhất (một). Nho có cái gọi là nhất cá lý, Thích có cái gọi là nhất thiết pháp, nhất nọ với nhất kia đều là Nhất cả. Vì vậy cho nên làm Hoàng đế, làm Vương bá, cũng là một Nho ấy, làm Thánh thần, làm Ma quỷ cũng là một Thích ấy, làm Nho hay làm Thích cũng là một đạo ấy. Đạo ở trong trời đất, chia ra thì có muôn cạnh khác nhau, tóm lại thì không có hai khía. Chương này đem Nho và Thích đúc lại làm một, đó là chỗ tâm đắc và nhất quán của Đại thiền sư, phát huy nó ra làm một trong hai mươi bốn thanh, là một áng văn chương cao cả, một pho nghị luận lớn lao, nào phải lấy ống hóp mà nhìn, lấy vỏ hến mà đong được… Trời được cái nhất cho nên trong, đất được cái nhất cho nên an, Thánh nhân được cái nhất mà thiên hạ hoà bình” [NTN-TP,T3, tr 187,188].
Cùng thời với Ngô Thì Nhậm có trạng nguyên Trịnh Tuệ, làm quan đến chức Tể tướng, tự xưng Trúc Lâm cư sĩ, viết bài Tam giáo nhất nguyên thuyết với quan niệm không khác với quan niệm của Ngô Thì Nhậm: “Nhà Nho có tam tài, nhà Phật có tam thế, nhà Đạo có tam thanh, cũng chẳng khác gì trời có mặt trời, trăng, sao; như vạc có ba chân, quan hệ mật thiết với nhau và không tách rời nhau được. Nói cho rõ là lễ, nhạc, hình, chính của nhà Nho dùng để ngăn ngừa lòng người khiến cho người ta xu hướng về điều thiện và cấm chỉ các điều ác, xa rời cái xấu và tăng thêm cái đẹp, hiển nhiên là như vậy. Thanh tĩnh từ bi của nhà Phật, trừ bỏ nghiệp chướng, cứu người độ vật, cùng đi đến chỗ giác ngộ, thì đó lại là uyên vi trong uyên vi. Nhà Nho chủ trương chỉnh đốn luân thường, duy trì giáo hoá, làm cho người ta bỏ thói bạc làm thói hậu, bỏ điều bạo chăm điều nhân. Đó là công việc rõ ràng. Nhà Đạo chủ trương rửa sạch luỹ trần, từ bỏ tham dục, vượt cõi phàm vào cõi thánh, cùng chung duyên lành thì đó lại là huyền diệu trong huyền diệu…Thế mới biết Nho tức là Thích mà Thích tức là Nho. Đạo cũng là Nho mà Nho cũng là Đạo”. Và Trịnh Tuệ kết luận quan niệm của mình bằng hai câu thơ: “Ai hay Tam giáo bất đồng/Thích Ca, Lão Tử cùng dòng Nho gia” [Viện Triết học, 1984, Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, tr.145, KHXH, Hà Nội].
Từ những nhận xét như trên mà đưa ra một kết luận khẳng định như vậy, e rằng chưa thuyết phục và hơi khiên cưỡng, bởi lẽ, cho dù Phật – Đạo – Nho có những điểm tương đồng ở sự thanh tâm, dưỡng tánh, tu nhân, tích đức, làm lành, lánh dữ…, nhưng trên bình diện tư tưởng triết học có nhiều điểm dị biệt.
Trong chương Thoát thanh Hải Lượng đại thiền sư cho rằng: “Phật Thích Ca Mâu Ni sinh sau Đế Thuấn Hữu Ngu Thị, cho nên tiếp thu được cái phép phá ngục [của Thuấn] để mà tế độ chúnh sinh… Hữu Ngu Thị là đại lực lượng mới phá được, Thích Ca Mâu Ni cũng là đại lực lượng mới tiếp thu được cái phép phá ngục… Hữu Ngu Thị lấy cái phép Tinh Nhất mà phá nó. Thích Ca Mâu Ni lấy cái phép Tinh Tiến mà phá nó. Sau này, Nhan Hồi nói Khắc Kỷ, Đại Tuệ nói Sát Hại, cả hai đều dụng công trên chữ Tinh, cho nên cái tinh lực để đánh phá địa ngục là thanh bảo kiếm kim cương” [NTN-TP,T3, tr.169].
Hải Lượng Ngô Thì Nhậm còn đi xa hơn trong việc dùng lý luận về các phạm trù quân tử và tiểu nhân của Nho gia lồng vào Phật giáo một cách khiên cưỡng: “Nho thì có Nho quân tử, Nho tiểu nhân; Thích thì có Thích quân tử, Thích tiểu nhân. Nho quân tử thì vị kỷ; Nho tiểu nhân thì vị nhân. Thích quân tử thì vị nhân, Thích tiểu nhân thì vị kỷ…chữ Kỷ và chữ Nhân trong luận chứng của nhà Nho là đứng về mặt Tâm Tính mà nói, Thích quân tử xả kỷ (bỏ mình) để tế độ người, Thích tiểu nhân đe dọa người để nuôi mình (kỷ), đó là đứng về mặt Lý và Dục mà phân Nhân và Kỷ. Chữ Nhân và Kỷ của đàng này (Phật) so với chữ Nhân và Kỷ của đàng kia (Nho) thì công phu, tác dụng không giống nhau , nhưng qui kết về tâm tính thì là một mà thôi. Vì vậy, cho nên nhà Nho nói Chính Tâm, nói Thành Tính, nhà Phật nói Minh Tâm, nói Kiến Tính đều là có nghĩa Đạo của người quân tử rộng khắp mà kín đáo (Quân tử chi đạo phí nhi ẩn, Lễ Ký, Trung dung)” [NTN-TP,T3, tr.177].
Quên mình vì mọi người (Vô ngã vị tha) là một trong những đặc trưng của tư tưởng Phật giáo, hàm nghĩa rất sâu, đại ý là không còn chấp ngã, không còn chấp vào cái Ta và cái sở hữu của Ta. Chỉ có đạt tới cảnh giới Vô Ngã (quên mình) thì mới thực sự thực hành được hạnh Vị Tha (vì người khác) một cách hữu hiệu và triệt để. Tu pháp môn Vô ngã là con đường dẫn đến cái đích Minh Tâm, Kiến Tính. Cũng như Chính Tâm, Thành Tính là cái đạo, là phẩm hạnh cần có của người quân tử theo cách nói của Nho gia. Nhưng ở đây, Nho gia nói Chính Tâm, Thành Tính là nói về cái Tướng, cái Dụng, cònnhà Phật luận Minh Tâm, Kiến Tính là đi đến chỗ triệt ngộ Bản Thể. Nếu không nhìn rõ chỗ này, sẽ dễ ngộ nhận về sự tương đồng giữa chúng.
Ở chương Biểu lý thanh, Hải Lượng Ngô Thì Nhậm còn gom cả yếu nghĩa kinh Lăng Già, một bộ kinh Đại thừa Phật giáo, vào trong Chu Dịch: “Phật diễn kinh Lăng Già, tức cũng là giảng cái huyền hư của Chu Dịch. Cương yếu của đạo lý là ở trong Lăng Già. Lăng Già giảng chữ Tinh rất rạch ròi. Đại để Phật gia thích dùng chữ sâu kín, không có sức hiểu sắc bén thì không hiểu được, mà đã hiểu được thì hiểu rất sâu sắc”.
Hải Âu hoà thượng Vũ Trinh dẫn hai câu cuối trong bài kệ của Huệ Năng để lý giải chữ Tinh như sau: “Tinh đến tột độ thì trong sáng sạch làu, không chút vướng bận, như bài kệ của Huệ Năng thiền sư có nói:
‘Xưa nay không một vật,
Từ đâu nảy trần ai?’
( Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai.)” [NTN-TP,T3,tr.171]
Hai câu này là hai câu cuối trong bài kệ trình bày sở ngộ tự tính của Huệ Năng khi còn tham học với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, được Tổ ấn chứng và truyền Y Bát kế thừa làm Tổ thứ sáu của phái Thiền tông đốn ngộ. Đại ý của hai câu này chỉ cho Chân Tâm thanh tịnh, Thể Tính tròn đầy, không nhơ, không sạch; không thêm, không bớt, chỉ có thể tự thể hội, không thể nắm bắt được
Ngô Thì Nhậm cố gắng luận giải chỗ tương đồng giữa thuyết Luân Hồi của nhà Phật và lẽ Tuần Hoàn mà nhà Nho đề cập đến: “Luân (cái bánh xe) cho nên Hồi (xoay vòng), cũng như nhà Nho nói Tuần Hoàn, vì Hoàn (cái vòng) cho nên Tuần (ven theo), không phải cái vòng thì không xoay. Nhà Phật nói Luân (cái bánh xe), nhà Nho nói Hoàn (cái vòng). Luân và Hoàn là đạo trời vậy… Tròn là cái thể của trời, nhật, nguyệt, ngũ tinh đều tròn, cho nên chu lưu, vận hành được. Thích Ca Mâu Ni chuyển cái bánh xe Vô Ngại, Khổng Tử đi xe vòng quanh các nước. Đi xe vòng quanh tức cũng là luân hồi… nhà Nho có chữ Biến Thông, Cảm Thông, Hội Thông; nhà Phật có chữ Thần Thông, cùng một nghĩa như nhau” [ NTN-TP,T3 tr.217].
Thuyết Luân Hồi của nhà Phật chủ yếu đề cập đến vấn đề mọi chúng sinh sau khi chết đi, tuỳ theo nghiệp thiện hay ác mà đi đầu thai từ kiếp này qua kiếp khác, liên miên bất tận như vậy. Phật giáo cho rằng, chúng sinh do si mê làm nhiều nghiệp ác nên phải Luân Hồi trong sáu nẻo (Trời, Atula, Người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) chịu khổ vô cùng. Chỉ có tu hành chứng đạo mới đựoc an vui, giải thoát, khỏi bị luân hồi. Còn Khổng Tử thường không trả lời những câu hỏi có liên quan đến con người sau khi chết, ông cho rằng việc sống còn chưa biết hết, làm sao nói đến việc chết.
Có thể nói rằng, với tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và lịch sử văn học Việt Nam, Hải Lượng Thiền sư Ngô Thì Nhậm đã cố gắng lý giải quan niệm Tam giáo đồng nguyên nói chung, xu hướng Khu Thích dĩ nhập Nho nói riêng, một cách có hệ thống, có lý luận. Nhưng do tư tưởng Nho gia đã thâm nhập vào trong máu huyết của ông ngay từ nhỏ, nên đôi khi ông đã kéo các phạm trù triết học sâu sắc, cao thâm và áo bí của nhà Phật về với các nguyên lý mang đậm chất thực tiễn nhằm tổ chức và cải tạo xã hội theo kiểu nhà Nho, nên không sao tránh khỏi sự khiên cưỡng, hình thức. Và thực tế, cho đến hôm nay Phật là Phật, Nho là Nho, không ai có thể đưa Nho vào Phật và ngược lại, cho dù người đó là danh nhân Ngô Thì Nhậm hay Hải Lượng thiền sư đi nữa.
THÍCH HẠNH TUỆ